“THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC VIỆT NAM LÀ KHAI HÓA VĂN MINH” - MỘT LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC (P1)
Hiện nay, có luận điệu cho rằng, “thực dân Pháp xâm lược Việt Nam là sự khai hóa văn minh”. Đây hoàn toàn là sự ngộ nhận, tuyên truyền xuyên tạc lịch sử, nhằm hạ thấp, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cần phải kiên quyết đấu tranh, bác bỏ.
 

Chủ nghĩa thực dân là một “vết nhơ”, một lực cản sự tiến bộ trong lịch sử nhân loại. Mặc dù vậy, vẫn có những người do vô tình (thiếu thông tin), hoặc cố ý xuyên tạc thực tế lịch sử, khi biện minh, “ngợi ca” sự thống trị, “những đóng góp to lớn” của chủ nghĩa thực dân phương Tây đối với các nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ la-tinh. Đối với nước ta, họ rêu rao rằng, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam là sự “khai hóa văn minh” cho một dân tộc lạc hậu và lập luận rằng: “Thời Pháp thuộc, có thể Việt Nam chưa giàu có, nhưng trước đó Việt Nam cũng đã sung sướng đâu?”; hoặc, các công trình, đường sá,… Việt Nam hiện nay đang sử dụng đều do Pháp xây dựng, chứ Đảng Cộng sản đã làm được gì đâu!, v.v. Đây hoàn toàn là luận điệu xuyên tạc, hòng phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, hạ thấp, xem thường dân tộc Việt Nam của những kẻ ngộ nhận, thế lực thù địch, phản động.
Trên thực tế, việc phê phán, lên án và vạch trần bản chất của chủ nghĩa thực dân phương Tây nói chung, thực dân Pháp nói riêng đã được lịch sử nhân loại làm rõ. Chủ tịch Hồ Chí Minh tố cáo thực chất cái gọi là “khai hóa văn minh” của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam: đó chỉ là bình phong để họ áp đặt sự thống trị, thực hiện công cuộc khai thác ở một nước thuộc địa.

Về chính trị, pháp lý, sau khi xâm chiếm Việt Nam, “văn minh” của thực dân Pháp được thể hiện ở chỗ, họ đã không áp dụng những thành tựu của cuộc Đại cách mạng Pháp năm 1789 để thủ tiêu chế độ phong kiến chuyên chế đã lỗi thời, thay bằng một chế độ chính trị mới tiến bộ hơn, được soi chiếu bởi tư tưởng của những nhà khai sáng dân chủ tư sản; trái lại, những “nhà khai hóa” lại duy trì chế độ phong kiến làm tay sai cho bộ máy thống trị thực dân. Đặc biệt, thực dân Pháp thi hành ở Việt Nam chính sách pháp luật hết sức phản động, phân biệt đối xử giữa người da trắng và người bản địa. Trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” (năm 1925), Hồ Chí Minh (Nguyễn Ái Quốc) viết: “Về hành chính và pháp lý: cả một vực thẳm cách biệt người Âu với người bản xứ. Người Âu hưởng mọi tự do và ngự trị như người chủ tuyệt đối; còn người bản xứ thì bị bịt mõm và bị buộc dây dắt đi, chỉ có quyền phải phục tùng, không được kêu ca, vì nếu anh ta dám phản đối thì anh ta liền bị tuyên bố là kẻ phản nghịch hoặc là một tên cách mạng, và bị đối xử đúng với tội trạng ấy”.

Để duy trì ách thống trị của mình, thực dân Pháp còn thi hành chính sách “chia để trị”, hòng “làm nguội được tình đoàn kết, nghĩa đồng bào trong lòng người An Nam và tạo ra những mối xung khắc giữa anh em ruột thịt với nhau”. Về công lý thì càng không được thực thi, “lẽ phải” đương nhiên thuộc về người da trắng, vì thế mà bất cứ tên thực dân nào cũng có thể giết chết, tàn sát hoặc cưỡng dâm người bản xứ; nếu có bị đưa ra tòa thì cũng được tha bổng. “Đó là việc áp dụng nguyên tắc nhằm bảo tồn bằng mọi cách uy tín của người da trắng trước bọn da vàng”. Càng mỉa mai hơn khi những “nhà khai hóa” đã bộc lộ rõ bộ mặt lừa dối và tàn bạo khi thực hiện “chế độ lính tình nguyện” bằng cách tiến hành những cuộc lùng ráp lớn về nhân lực trên toàn cõi Đông Dương, đẩy hàng chục vạn người dân Việt Nam phải bỏ mạng nơi đất khách quê người, trở thành người đóng “thuế máu” cho chúng. Thậm chí, chính quyền thực dân đã hành hạ, tra tấn những người trong gia đình họ, cho đến khi những người trốn lính buộc phải nhận “tình nguyện” tham gia quân đội.

Không những thủ tiêu các quyền tự do, dân chủ của người dân, thực dân Pháp còn thẳng tay chém giết những người Việt Nam yêu nước dám đứng lên chống lại sự thống trị tàn bạo của chúng, tắm các cuộc khởi nghĩa, các phong trào đấu tranh yêu nước trong biển máu. Các nhà tù khổ sai ở Guyan, Tân Calêđôni, Côn Đảo,... đều đầy ắp tù chính trị người bản xứ sau những cuộc đàn áp. Súng liên thanh và máy chém đều chóng vánh buộc những ai “bướng bỉnh”, dám phản kháng lại sự “khai hóa văn minh” kiểu thực dân phải im hơi lặng tiếng. Đó có phải là khai hóa văn minh? Phải chăng, sự “khai hóa văn minh” được thể hiện ở phương châm: “Đối với cái giống nòi Annamít ấy, chỉ có một cách tốt để cai trị nó - đó là ách thống trị bằng sức mạnh...”.

Trong lĩnh vực kinh tế, nhằm vơ vét tài nguyên, khoáng sản, làm giàu cho chính quốc, thực dân Pháp đã đẩy mạnh công cuộc khai thác thuộc địa, đỉnh cao là cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 - 1914) và lần thứ hai (1919 - 1929), làm khánh kiệt tài nguyên của đất nước. Đi kèm với đó, hệ thống giao thông (đường bộ, đường sắt, đường thủy, cảng biển,…) phục vụ cho việc khai thác thuộc địa được mở mang; một số công trình dân sinh phục vụ cho nhu cầu của giới thực dân được xây dựng, chứ không nhằm đem lại cuộc sống tốt đẹp cho người dân bản xứ.

Đáng nói hơn là, nhằm nô dịch, đầu độc, bóc lột dân ta, chính quyền thuộc địa đã áp dụng chính sách độc quyền, khuyến khích tiêu thụ rượu, thuốc phiện. “Lúc ấy, cứ một nghìn làng thì có đến một nghìn năm trăm đại lý bán lẻ rượu và thuốc phiện. Nhưng cũng trong số một nghìn làng đó lại chỉ có vẻn vẹn mười trường học”. Từ năm 1900 đến năm 1910, chính quyền thuộc địa thu về 45 triệu tiền lời từ rượu. Đồng thời, sử dụng nhiều biện pháp khuyến khích, ép buộc người dân sử dụng thuốc phiện. Chế độ đó đã làm hại giống nòi Việt Nam nhưng đem lại nguồn thu không nhỏ cho những tên thực dân. Trong thời kỳ 1900 - 1907, ngân sách thu được từ thuốc phiện là 54 triệu đồng, bình quân mỗi năm Đông Dương thu được xấp xỉ 6,8 triệu đồng và năm 1911 thu về là 9 triệu đồng. Điều này đã được chính toàn quyền Đông Dương viết trong thư gửi cho những người thuộc quyền: “Kính gửi ông Công sứ, Tôi trân trọng yêu cầu ông vui lòng giúp đỡ những cố gắng của Nha Thương chính trong việc đặt thêm đại lý bán lẻ thuốc phiện và rượu, theo chỉ thị của ông Tổng Giám đốc Nha Thương chính Đông Dương. Để tiến hành việc đó, tôi xin gửi ông một bản danh sách những đại lý cần đặt trong các xã đã kê tên; phần lớn các xã này, vẫn hoàn toàn chưa có rượu và thuốc phiện”. Cùng với đó, thực dân Pháp còn thực hiện chế độ cho vay nặng lãi, sưu cao, thuế nặng, với nhiều loại thuế, chỉ tính “từ năm 1890 đến năm 1896, thuế trực thu tăng gấp đôi; từ năm 1896 đến năm 1898 lại tăng lên gấp rưỡi”. Điều đó làm cho đời sống người dân vốn đã cơ cực lại càng cơ cực, nhiều người vì gánh nặng nợ nần đã phải “bán vợ, đợ con” và nhà cửa, ruộng vườn để thoát nợ nần, tù tội.

anh tin bai
anh tin bai
anh tin bai
anh tin bai

(Còn tiếp)

Theo Cột cờ Thủ Ngữ

Nguồn: https://officialaccount.me/pc?type=article&pageId=645137990274975361&id=5b81221fa55a4c04154b

Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 64
  • Trong tuần: 707
  • Tất cả: 595628